QuocHung's Blog

12 thg 2, 2010

Đằng trước là phía Nam là biển

Nhân kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội, phóng viên Sài Gòn Tiếp Thị đã trò chuyện với ông, giáo sư chính trị học Cao Huy Thuần, về quá trình Nam tiến, mở cõi của cha ông, và về việc gìn giữ những giá trị cội nguồn.

Thưa anh, anh từng viết: “Vạn đại dung thân là gì nếu không phải là cái thấy chiến lược bừng sáng trong đầu về một chân trời mới mở rộng ra trước mắt, không phải cho một đời Nguyễn Hoàng, mà cho cả ngàn đời một dân tộc thường xuyên đi tìm lối thoát khỏi một vị thế địa dư trứng nằm dưới đá”. Từ bài học ấy của người xưa, anh kiến giải thế nào về hành trình mở cõi của cha ông để lại cho con cháu nguyên vẹn dải đất hình chữ S mà khởi nguồn chỉ là một nửa chữ S?



Hành trình mở cõi bắt đầu từ khi nước Việt Nam mới sinh. Tôi xin phép nói đùa như vậy để nhấn mạnh tầm quan trọng quyết định của yếu tố địa dư. Lập nước trên miếng đất như vậy, chữ “Nam tiến” nằm sẵn trong tử vi. Chị xem địa hình miền Bắc: châu thổ, núi, sông. Châu thổ bằng phẳng như bàn tay, núi cheo leo tràn vào đất, và sông thì tuyệt vời anh hùng lao động, không ngừng dâng bầu sữa thơm bú mớm cho đồng bằng. Lúc nhỏ, tôi học: đồng bằng Bắc bộ chỉ rộng 15.000 cây số vuông mà phải nuôi 6,5 triệu nông dân. Nông dân ấy thở với sông Hồng và phập phồng với nó: lúc nó giận dữ, sóng ầm ầm cuộn nước lên bờ, mùa màng mất sạch, dân đói. Chỉ có một cách đối phó với đe doạ thường xuyên của nó mà thôi, là đắp đê. Nhưng lịch sử ghi chép bao nhiêu lần đê vỡ, lôi cuốn theo nổi loạn của nông dân cùng khổ. Đất chật, người đông, thiên tai, lũ lụt thường xuyên, nhưng chính đồng bằng sông Hồng đã tạo ra con người Việt Nam, đầy nghị lực, can trường, gian lao không quản, khổ nhọc không lui. Với những đức tính đó, những con người đó sẽ dần dần chinh phục những đồng bằng phía Nam như một sức đẩy tự nhiên.

- Nhưng mới đầu, khi vào Thanh Hoá, Nghệ An, rồi sau đó dần dần tiến xuống dải đất miền Trung, những con người ấy chỉ gặm được một khúc xương…

Một khúc xương giữa núi và biển, đất chỉ rộng từ 25 đến 50 cây số. Thanh Nghệ đồng khô cỏ cháy, những con người ấy lại phải vật lộn với thiên nhiên, với đói kém. Sâu hơn nữa về phía Nam, làng biển lại thường xuyên vật vã với phong ba, với nước mặn tràn vào ruộng. Nhắc lại những điều kiện địa dư đó – mà ai cũng biết – để nói rằng Nam tiến là giải pháp duy nhất của dân tộc Việt Nam, là vấn đề chết sống. Phát xuất từ đồng bằng sông Hồng, những nông dân sống với ruộng nước phải tìm ruộng nước để sống. Núi non không phải là đất sống của nông dân. Con người Việt Nam cho đó là xứ sở của ma thiêng nước độc. Cho nên hồi Pháp mới xây dựng thuộc địa, 20 triệu người Việt Nam sống trên 75.000 cây số vuông, trong khi hai triệu dân “thiểu số” chiếm 246.000 cây số vuông. Còn biển cả, dân Việt Nam không phải là một dân tộc thuỷ thủ, tuy sống dọc theo một bờ biển dài trên 2.000 cây số. Tế Hanh làm thơ: Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới/ Nước bao vây cách biển nửa ngày sông, nhưng dân chài trong làng ông chẳng dám mạo hiểm ra xa, đánh cá qua đêm rồi sáng hôm sau chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm. Sau này, các chúa Nguyễn canh tân tàu thuyền và người Pháp, khi mới đến, rất đỗi ngạc nhiên về kỹ thuật đóng tàu tinh xảo của miền Nam, nhưng trước đó, biển không phải là đất, là ruộng, giản dị như vậy. Văn minh Việt Nam là đất và ruộng. Đất để sống và ruộng để ăn. Giản dị vậy thôi, người nông dân Thuận Quảng tiếp nối Nam tiến của truyền thống sông Hồng. Họ lại càng sống chết với đất và ruộng khi chúa của họ cũng sống chết như thế. Cả chúa lẫn tôi đều không có giải pháp nào khác. Nam tiến thành công, một phần là nhờ địa lý đã un đúc nên các đức tính cần thiết cho những con người xông pha mở đất, nhưng phần chính là vì không có giải pháp nào khác. Khi đã một sống một chết thì cứ thế một đường mà đi mà đến. Chúng ta hiện nay đang ở trong tình thế như vậy, hoặc sống hoặc chết. Chúng ta đang bị dồn vào trong tình thế không có giải pháp nào khác.

- “Nam tiến ngày hôm nay là Nam tiến trong cái đầu”. Câu anh từng viết đó có nghĩa gì?
Tổ tiên chúng ta đã Nam tiến với lưỡi gươm và lưỡi cày. Với lưỡi gươm… Đừng quên rằng Chiêm Thành lúc đó là một dân tộc văn minh không kém, và thiện chiến. Họ không lấn vào Nam được vì vương quốc Khmer lúc đó đang ở trong thời cực thịnh vàng son. Họ phải xông lên phía Bắc, nhiều lần xâm lấn, cướp bóc Nghệ Tĩnh. Thạo đường thuỷ, Chế Bồng Nga có lần uy hiếp Thăng Long. Không bình Chiêm thì làm sao trị quốc? Chiến tranh với Chiêm Thành cũng góp phần bồi đắp ý thức Việt Nam. Nhưng cái tài của Việt Nam là đã Nam tiến với lưỡi cày. Lúc đầu, người Việt len lỏi lao động hoà bình bằng cách khai khẩn đất bỏ hoang của người Chàm. Rồi cũng như người Do Thái lúc mới lấn chiếm Palestine, họ mang theo kỹ thuật canh tác hiệu năng hơn, mô hình tổ chức xã hội chặt chẽ hơn, một ý chí lập nghiệp vững như núi, bấy nhiêu điều kiện đó giúp họ dần dà trở thành những ông chủ ruộng cấy. Tất nhiên, dân bản xứ phản ứng, nhưng đàng sau lưỡi cày là lưỡi gươm, lưỡi cày cứ lấn tới, lấn tới đâu dân tràn tới đó. Khi một nước đã có dấu hiệu suy, chính trị, văn hoá, đạo đức, xã hội suy trước, suy từ từ, chậm chậm, trong một thời gian dài, không để ý, cho đến khi kết liễu với thất bại quân sự. Nước Chiêm Thành đã suy như thế.

- Nhưng anh chưa nói gì về “Nam tiến trong cái đầu”…
Ấy là tôi muốn nói điều này trước đã: Nam tiến ngày xưa thành công vì còn nhờ thêm một yếu tố này nữa. Như tôi đã nói ở trên, núi non chiếm diện tích lớn trên bản đồ nước ta. Nhưng ta không ưa núi. Thuở nhỏ, tôi đọc tiểu thuyết Vàng và máu của Thế Lữ, bây giờ còn run với những trù, những yểm, những ma quái của rừng thiêng nước độc. Ta bỏ núi non cho những dân tộc mà trước đây ta gọi là “thượng”. Ta chỉ tình tự với núi rừng lúc làm chiến tranh. Chỉ lúc chiến tranh, Trịnh Công Sơn mới có người yêu chết trận Chu Prong hoặc Pleime gì đó. Còn thời bình thì chỉ Vàm Cỏ Đông em hỡi, Vàm Cỏ Đông em ơi.

Nhưng có Vàm Cỏ là nhờ gì? Nam tiến thành công là nhờ đâu nữa? Nhờ từ trong núi non không có xâm lăng đánh ra. Ta yên chí lấn đất vì ta không lo về mặt núi. Người Pháp thuộc địa biết vậy nên ngay từ đầu đã muốn biệt lập Tây Nguyên với đồng bằng để làm xứ sở tự trị, chia Trung kỳ ra làm cao nguyên với bình nguyên. Ta khinh miệt các dân tộc sống trên núi là “thượng”. Nhưng có kẻ khác không chê. Ngay từ đầu của thời thuộc địa, họ đã tận tâm tận lực biến “thượng” thành một giống dân có tín ngưỡng khác, khác với “thượng” và khác với những người Việt Nam, cũng trong mục đích lập xứ sở riêng. Bao nhiêu nước đã chảy qua cầu Long Biên, nhưng hình như cái ý định tách Tây Nguyên vẫn còn nguyên vẹn. Mà không phải chỉ có thuộc địa với tôn giáo! Núi non ngày nay không phải chỉ có “thượng” với cây trên rừng! Còn vàng dưới đất nữa! Cho nên, kìa… ai kia cũng đang làm một dạng đồn điền hao hao giống ta ngày xưa, không phải để cày đất ruộng mà để xới đất rừng, không phải chỉ để Nam chinh mà còn Tây tiến, tiến từ Tây Nguyên. Coi chừng, núi non Chi Lăng sẽ gặp núi non Lạng Biên. Núi liền núi sông liền sông.

- Bởi vậy ta chỉ còn có cách nối liền mũi Cà Mau của ta với các nước bạn ngoài biển khơi? Với đảo, với bán đảo? Với bạn bè đồng sàng đồng mộng? Đất xa đất nhưng biển liền biển?

Thì đó chính là Nam tiến trong cái đầu. Cả một chiến lược phải nghĩ. Dứt bỏ lối suy nghĩ cũ. Hy sinh tất cả. Chúng ta đang ở trong cái thế không có cách nào khác. Trong cái thế một chết một sống. Không chủ động chơi chung với bất cứ ai cùng một quan tâm thì chết. Nhưng muốn vậy, phải bắt người ta chơi với mình. Mà muốn bắt người ta như thế thì phải chứng tỏ với họ rằng mình là cần thiết cho chính họ. Phải làm cho họ thấy rõ mồn một rằng một nước Việt Nam mạnh, độc lập, là yếu tố cần thiết cho ổn định của cả vùng. Ta cũng bạn bè thật tình với mọi đại cường, nhưng ta cũng làm cho họ hiểu rằng ta là cần thiết để không ai là đế, không ai là vương, không ai là đế vương của ai, không ai là chúa tể của một vùng trời biển. Ta có làm được như vậy không? Được! Với điều kiện hy sinh tất cả.
Hy sinh cả quyền lợi riêng tư.

- Trở về lại với Nam tiến ngày trước. Trong cuộc di dân vĩ đại ấy, văn hoá Đại Việt đã tiếp xúc như thế nào với các văn hoá khác để làm giàu hơn bản sắc Việt Nam?

Năm 1069, vua Lý Thánh Tông cất quân đi đánh Chiêm Thành, bắt được vua nước ấy là Chế Củ cùng một số tù binh, trong đó có một ông sư người Trung Hoa. Vua triệu sư vào triều, đem kinh luận và thiền học vấn đáp. Sư ứng đối lanh lẹ, xác đáng; vua kính phục, phong sư đến chức quốc sư. Đó là thiền sư Thảo Đường, tổ phái thiền thứ ba ở Việt Nam. Điều này đặt ra câu hỏi: phải chăng thời đó Phật giáo cũng đã có mặt tại Chiêm Thành, mà lại là Phật giáo thiền tông? Ngày nay, có ngôi chùa ở Huế, khi đào đất lên xây chùa, tình cờ tìm thấy trong đất vài tượng Phật mang nét điêu khắc của Chàm. Thời Lý, thời Trần, văn hoá Đại Việt cực kỳ vạm vỡ, với thiền là nòng cốt, quắc thước dung hợp Khổng Lão. Văn hoá ấy đã mạnh, nếu gặp thêm cơ sở thuận lợi trước đó nữa, điều dễ hiểu hợp lý là nó sẽ đồng hoá, dù muốn hay không. Sau này, khi các chúa Nguyễn tiến sâu vào Nam, tiến đến đâu dân lập chùa đến đó, chùa của chúa và chùa của dân ngẩng đầu trên đất mới nhìn trời mới. Điều đáng nói là không thấy lịch sử ghi một cuồng bạo văn hoá nào bắt dân mới theo đạo mới. Chỉ thấy văn hoá Đại Việt rộng mở, thâu nhận cả ảnh hưởng của văn hoá Chàm, về nghệ thuật, về âm nhạc. Bản sắc của Việt Nam nằm ở đấy: không có bạo lực tín ngưỡng, không có cực đoan tư tưởng, không có duy nhất chân lý. Về mặt dân chủng, dân Đại Việt cũng trộn lẫn với dân bản xứ, đẹp hơn hay không thì tôi không biết, nhưng thấy ai cũng khen con gái Huế…

- Con gái Sài Gòn cũng đẹp chứ! Theo anh, người Sài Gòn gìn giữ và làm mới thêm những giá trị nào của người Hà Nội, của cái nôi dân Việt?

Tôi là dân Huế, lần đầu tiên vào Sài Gòn học lúc người Bắc di cư vào miền Nam sau hiệp định Genève. Chân ướt chân ráo, mua trái cây, gặp cô hàng ngước mắt hỏi: “Anh Hai ở ngoài Bắc có sầu riêng không?” Với người Nam lúc đó, ai không phải là người Nam thì đều là dân Bắc cả. Tôi mê hai tiếng “anh hai” quá trời, vì cái giọng miền Nam ngọt ngào, chân thật, như người miền Nam mà tôi… cũng mê. Câu hỏi của chị, tôi muốn đổi ngược lại: làm sao tất cả những “người Bắc” – nghĩa là có tôi – cất giữ, trân quý cái chất ngọt ngào, chân thật đó của người Sài Gòn?

- Nhưng anh có buồn không khi chính Hà Nội đang mất dần bản sắc của mình? Những tinh hoa của Hà Nội cổ, từ lời ăn tiếng nói, con người, giá trị dòng tộc… đang phiêu bạt nơi đâu?

Đâu có phải chỉ Hà Nội? Huế của tôi cũng vậy. Huế là một đất văn hoá đặc biệt, khác với tất cả những nơi khác. Vì là đất chùa chiền, dân Huế không ăn thịt chó, trừ một thiểu số rất nhỏ. Bây giờ, quán hạ “cờ tây” nhan nhản. Cũng vì là đất chùa chiền, chợ Đông Ba không có tiếng chửi nhau ngày rằm, mồng một. Ức lắm thì chỉ chửi… gián tiếp: “Bữa ni mồng một, tau kiêng chửi, mai mồng hai tau sẽ chửi cha mi”. Như vậy cũng là văn minh rồi! Nay, chửi tục, nói tục, ăn tục, làm tục, không phải chỉ ở Hà Nội
Nhưng bi quan là chết, chị ạ. Nếu giữa mùa đông mà chị thấy một cánh hoa đào, thì đừng nguyền rủa gió bấc mà hãy cám ơn gió đông. Năm 1980, tôi về Hà Nội, rong xe đạp thăm thành phố, có lúc ngừng xe, chống chân hỏi đường, chỉ nghe quát: “Xuống xe!” Năm nay, về Hà Nội, ngừng xe hơi, mở cửa kính hỏi đường, kể cả hàng quán ven lề đều vồn vã chỉ đường cho khách. Trèo mấy trăm bậc thang đá lên Yên Tử, giữa núi non lạnh lẽo vẫn trẻ trung trai gái tham quan. Có tiếng chào hỏi đon đả: “Chào bác”, “Chào thầy”, và cả “A di đà Phật”. Mát ruột đến ngẩn ngơ. Tưởng như mình là cô thiếu nữ đi chùa Hương trong thơ: “Em nghe rồi ngẩn ngơ”.
Hãy vui như thế, chị ạ, với cả trăm chuyện vui nhỏ. Còn ngậm ngùi… Ai mà chẳng! Nhưng thôi, hãy để cho trái sầu nó rụng rơi. Tôi không phải là người hoài cổ.

- Để thoát khỏi tâm trạng hoài cổ đó, theo anh, phải làm gì?

Tôi không hoài cổ, vì hoài cổ đưa đến hoài cựu, mà hoài cựu là điều tôi thậm ghét... Ta hãy hổ thẹn so sánh với Trung Quốc: người Hoa trên thế giới đâu đâu cũng hãnh diện về nước của họ. Họ hãnh diện với hiện tại, họ hãnh diện với tương lai. Họ thấy trước mắt. Họ không quay nhìn đằng sau. Tôi đã lặp đi lặp lại, mong chị đừng nhàm chán: chúng ta đang ở trong giai đoạn một sống một chết. Muốn chết, hãy nhìn đằng sau. Muốn sống, phải nhìn đằng trước. Đằng trước là phía nam, là biển.
Thế nào là sống, thế nào là chết?
Thế nào là sống, là chết với ngàn năm Thăng Long? Sống là:
Chân ta bước lòng ung dung tự hào
Kìa nòng súng vẫn vươn lên trời cao.
Sống là:
“Thà làm quỷ nước Nam, không thèm làm vương đất Bắc”.
Đó là cách sống của Trần Bình Trọng.
Cám ơn anh.
Theo SGTT Online